Tại kinh thành Lạc Dương có một tay, trước là thương buôn sau chuyển sang nghề cờ bạc. Nhờ lanh lợi trong mánh lới buôn bán, gã học được nghề bịp rất nhanh. Tài bịp của gã giỏi tới mức không một ai biết mà chỉ cho rằng gã “số đỏ” hoặc “thiên tài”. Bao nhiêu tiền ngày hôm nay đều do cờ bạc mà có. Thế nhưng không hiều sao, có thể do ‘tổ trác” hay do “hết thời” mà gã thua liên tiếp, mất 50 lượng vàng tại một sòng bài lớn. Vừa tiếc của, vừa tức giận, vừa xấu hổ, gã cho mời viên quản lý ra, lớn tiếng nói:
-Ta sống bằng nghề
đánh bạc đã hơn hai mươi năm, chỉ có ăn mà không có thua. Nếu ta thua tức sòng
bài gian lận. Yêu cầu quản lý trả lại 50 lượng vàng, nếu không ta sẽ thưa lên
quan phủ.
Nghe vậy viên quản
lý vô cùng ngạc nhiên, nói:
-Thưa khách quan,
sòng bài của chủ nhân chúng tôi mở ra đã năm mươi năm, cha truyền con nối. Nhiều
phú gia, vương tôn công tử đến đây chơi, ăn có, thua có nhưng chưa một ai nói
chúng tôi gian lận. Xin khách quan nghĩ lại.
Biết rằng không thể
đòi lại tiền. Vùng vằng, văng tục mấy tiếng, gã tức giận bỏ đi, về nhà nạp đơn
lên quan phủ kiện đòi lại vàng. Khi nhận được đơn, quan phủ đăng đường, hỏi:
-Nhà ngươi có bằng chứng sòng bài gian lận
không?
-Gã
ấp úng nói:
-Thưa quan phủ
không có…nhưng con cảm thấy có sự gian lận vì mặt tên quản lý trông rất gian. Cả
tên hồ lỳ trông cũng gian lắm…và những con bạc có lẽ do chủ sòng bài gài vào
làm cò mồi để lường gạt con không biết chừng.
Quan phủ phán:
-Nhiều kẻ mặt mũi
trông đẹp đẽ, hiền lành nhưng cũng làm chuyện gian ác. Mặt trông gian nhưng
chưa chắc làm chuyện gian. Mặt mũi nhà ngươi trông cũng “gian” lắm nhưng ta
không thể bỏ tù nhà ngươi vì bộ mặt được. Ngoài ra, những kẻ bước vào sòng bài
có kẻ nào hiền lành đâu? Toàn là thứ ghê gớm cả, toàn là thứ muốn ăn tiền của
thiên hạ. Ngươi đỏ-đen với họ thì phải biết chớ. Ngươi có biết câu “Cờ gian bạc
lận” không? Nếu chẳng may bị lường gạt là đáng đời, còn thưa kiện gì nữa?
Nói rồi truyền bãi
chầu.
Vừa thất vọng vừa
tức giận, nhưng do tiếc của và cho rằng mình bị xử oan, một lần nữa gã lại nạp
đơn lên
quan thượng thư để đòi lại tiền. Nhận được đơn thưa, quan thượng thư bắt quỳ
trước công đường, hỏi:
-Nhà ngươi có bằng
chứng sòng bài gian lận không? Ai làm chuyện gian lận và gian lận thế nào?
Lần này do đã nấu
nung suy nghĩ và do kinh nghiệm thất bại ở tòa dưới, gã khôn ngoan nói:
-Bẩm quan thượng,
sòng bài nào mỗi năm cũng đều đóng một số thuế rất lớn vào công khố. Nếu họ
không ăn thì làm sao có tiền để đóng thuế? Mà muốn ăn thì phải gian lận. Nói
tóm lại sòng bài là nơi gian lận có tổ chức để móc túi con bạc. Xin quan thượng
thương tình ra lệnh cho họ trả lại 50 lượng vàng cho con.
Nghe vậy quan thượng
thư nói:
- Sòng
bài là chỗ đỏ đen, sát phạt, chỗ bao kẻ nhiều tiền lắm của ném đi để giải trí.
Nó cũng là chỗ tụ họp của bao kẻ lưu manh kiếm tiền. Nó là chốn địa ngục, nó là
chốn gia đình tan nát. Nó là chỗ dẫn ra nghĩa địa hay vào ngục thất nhanh nhất.
Rất nhiều kẻ đã sống bằng nghề cờ bạc, nhưng cũng có nhiểu kẻ tự vẫn vì cờ bạc.
Điều này chứng tỏ cờ bạc có người ăn người thua. Chủ sòng bài lấy tiền hồ.
Chính tiền hồ đã nuôi sống sòng bài và đóng thuế chứ chẳng phải lường gạt chi cả.
Nhà ngươi thua kỳ này nhưng có thể ăn kỳ sau. Nhưng chung cuộc nếu nhà ngươi cứ
tiếp tục đi vào con đường đỏ đen…thì sẽ tự treo cổ hoặc vào tù. Đòi tiền thua ở
sòng bài cũng giống như đòi tiền cho gái vậy.
Ngừng lại rồi quan
thượng thư phán tiếp:
- Khi nhà ngươi ăn,
con bạc khác thua. Nếu con bạc thua đi kiện sòng bài gian lận thì ngươi nghĩ sao?
Ngươi có trả lại tiền cho người ta không?
Nói xong quan thượng
thư truyền sai nha đuổi ra ngoài.
Vừa hận vừa buồn vừa tiếc của, vẫn chưa chịu
thua, gã về nhà bán một số đồ vật quý giá, gom được một lạng vàng đút lót cho
sai nha ở dinh quan tể tướng, nạp đơn thưa kiện một lần nữa.
Trong số sớ, công
văn và trình báo từ các phủ bộ gửi về, quan tể tướng ngạc nhiên sao lại có một
đơn thưa kiện cờ bạc lọt vào đây. Đọc xong quan tể tướng nổi giận phê, “Ta lo
chuyện quốc gia đại sự, không có thì giờ giải quyết chuyện cờ gian
bạc lận. Nếu còn lằng nhằng ta sẽ tống vào ngục thất!”
Nghe sai nha đọc lời
phê của quan tể tướng, gã choáng váng cả mặt mày. Quá tuyệt vọng, không về nhà,
gã lang thang như một tên mất hồn giữa đường phố. Lang thang một hồi, gã tới
trước cổng Bạch Mã Tự- một ngôi chùa nổi tiếng của kinh thành Lạc Dương lúc nào
không hay. Quá mệt mỏi, gã bước vào chùa, chẳng phải để lễ Phật mà chỉ để nghỉ
chân.
Sân chùa hoàn toàn
vắng lặng, thỉnh thoảng có tiếng chuông ngân nga vọng tới từ chính điện. Dưới
tán cây cổ thụ, một vị sư đang ngồi tĩnh tọa trên một tảng đá vuông vức giống
như một chiếc bàn, tay cầm một cuốn kinh. Sự trầm mặc và thanh thản
của nhà sư, nhất là khuôn mặt, dường như lan tỏa ra cây cối, cảnh vật
chung quanh khiến tạo nên một không khí vô cùng yên bình.
Con người ta, khi
đã tận nhân lực mà không giải quyết được chuyện đời và khi cùng đường, tuyệt vọng,
thường bám víu vào thần linh, cúng vái, cầu nguyện khắp nơi, thậm chí gốc đa, tảng
đá cũng lạy. Gã chợt có ý nghĩ là biết đâu nhờ Phật mà mình có thể lấy lại 50 lạng
vàng không biết chừng vì nghe nói chùa này rất linh thiêng. Ngồi xuống một tảng
đá bên cạnh, gã lặng yên quan sát nhà sư một hồi rồi lên tiếng:
-
Chào
thầy. Tôi muốn nhờ thầy một chuyện.
Lặng lẽ bỏ cuốn kinh xuống, nhà sư đưa mắt
hỏi:
-
Ông
muốn hỏi tôi chuyện gì?
Gã cờ bạc bịp nói ngay:
- Tôi
nghe nói Phật pháp nhiệm màu. Tôn Ngộ Không mà Phật Tổ còn trị được huống chi mấy
kẻ gian lận. Xin thầy cho tôi biết liệu pháp Phật có thể giúp giải quyết được
chuyện đời không?
Sư hiền từ đáp:
- Pháp
Phật bao trùm lên pháp thế gian. Mọi chuyện trên đời này đều do tham-sân-si biến
hiện ra. Pháp Phật nhằm diệt trừt tham-sân-si cho nên có thể giải quyết tận gốc
rễ chuyện của thế gian. Có chuyện gì xin ông cứ cho tôi biết. Nếu giúp được thì
tôi nói “có” còn không giúp được thì tôi nói “không”.
Được lời như cởi tấm
lòng. Gã thành thực kể lại chuyện mình đánh bạc thua 50 lượng vàng vì sòng bài
gian lận, kiện khắp nơi nhưng thất bại và mong thầy giúp cho một kế để lấy lại
số vàng ấy.
Nghe vậy sư nói:
- Phật
pháp không giúp ông lấy lại được 50 lượng vàng. Nhưng Phật pháp có thể giúp ông
quên đi số tiền đó. Tôi hỏi thật, số vàng ấy là do mồ hôi nước mắt của ông làm
ra hay do đánh bạc mà có?
Gã cờ bạc bịp
thành thực thú nhận:
-
Tiền
đó là do đánh bạc mà có.
Nghe thế sư nói:
- Nếu
tiền đó không phải của ông thì nếu mất đi, có gì đâu mà tiếc? Con chim bay trên
trời đâu phải của ông. Nay ông bắt được con chim, chẳng may sẩy tay, con chim
bay đi thì có gì tiếc đâu?
Nghe thuyết giáo
như vậy, gã nổi cáu, gằn giọng, nói:
- Tiền bạc một khi
đã ở trong tay tôi là của tôi. Nếu đã là “của tôi” thì mất đi phải thương tiếc
chứ, “Của đau con xót” mà. Chẳng hạn như chiếc y thầy đang mặc kia là của thầy.
Nếu có kẻ lấy đi thì thầy có đòi lại không?
Vẫn với giọng hiền từ, sư nói:
- Cái
y này không phải của tôi mà là của Phật tử bố thí cho. Ngay cả cái thân xác này
cũng không phải của tôi bởi vì khi chết đi tôi chẳng thể mang theo. Cái ngai
vàng kia cũng chẳng phải của vua. Cái phủ điện kia cũng chẳng phải của quan tể
tướng. Thậm chí vợ con, của cải, tôi tớ mà ông đang có cũng chẳng phải của ông.
Ông có thấy hồn ma nào hiện lên cùng với vợ con, của cải, thành quách không? Tất
cả chỉ là những cái bóng trắng tay, cô đơn, vất vưởng. Tất cả những gì ông đang
nhìn thấy trước mắt đây đều do nhân duyên giả hợp mà thành. Khi nhân duyên tan
thì nó cũng sẽ chia ly, tan vỡ. Không có cái gì vĩnh viễn là của ông hay của
tôi.
Nghe nói thế gã
đâm bực bội, bèn lý sự với thiền sư:
- Thầy
nói thế nghe sao được? Ít ra trên cõi đời này con người ta cũng phải có một cái
gì chứ, chẳng lẽ trần trụi hết sao?
Thiền sư mỉm cười
nói:
- Có
chứ. Có một thứ thật sự là của ông hay của tôi, đó là: cái thần thức, cái đầu
óc linh mẫn, cái tâm, cái nghiệp. Những thứ này sẽ theo ông sau khi chết, kiếp
này sang kiếp kia mà không một ai có thể đánh cắp, chiếm đoạt, lấy đi. Làm thế
nào mà ai đó có thể chiếm đoạt, đánh cắp cái tâm từ bi hỷ xả, cái lòng độ lượng,
cái nết bao dung của ông? Tất cả những gì thuộc thế giới hữu hình, hữu vi đều
giả tạm và phải diệt mất. Còn tất cả những gì thuộc vô vi, thuộc tâm thì sẽ tồn
tại mãi mãi. 50 lạng vàng kia nó đã qua tay nhiều người, nhiều đời và nó sẽ
luân hồi mãi như thế. Ông đang tiếc nuối cũng như bao nhiêu người trong quá khứ
đã tiếc nuối nó.
Nghe sư giảng giải
thế, dĩ nhiên gã chẳng hiểu nhiều, cuối cùng gã nói:
- Xin
thầy ngắn gọn cho tôi biết làm thế nào để tôi có thể lấy lại 50 lạng vàng. Nếu
lấy lại được tôi xin cúng chùa mười lạng.
Sư cầm cuốn kinh đặt
vào tay gã rồi nói:
- Đây
là cuốn Bát Nhã Tâm Kinh, là thần chú vô cùng kỳ diệu. Ông đem về đọc đi, đọc
thật nhiều cho đến khi nào không còn nuối tiếc, thương tiếc bất cứ cái gì trên
cõi đời này…là thành công, là có thể lấy lại được vàng, muốn bao nhiêu cũng được.
Nếu ông còn nuối tiếc bất cứ một cái gì trên cõi đời này thì hỏng tức không bao
giờ có thể lấy lại được vàng. Ông có nghe chuyện Thục An Dương Vương xứ Âu Lạc
bị mất nước, biến thành con chim kêu “Quốc!Quốc!” ngày đêm mà có lấy lại được
nước đâu? Ngoài ra, nếu lấy lại được vàng xin ông làm việc phước thiện để đức
cho con cháu. Nhà chùa giữ vàng bạc, châu báu để làm gì?
Nói xong sư nói lời
từ giã rồi chậm rãi bước vào bên trong. Cầm cuốn kinh, bước ra khỏi cổng chùa,
trên đường đi, gã lẩm bẩm:
- Không
biết cuốn kinh này có giúp mình lấy lại 50 lạng vàng không? Khi nào quên hết
thì có thể lấy lại vàng. Ngược lại nếu còn nhớ đến nó thì không sao lấy lại được.
Không biết ông thầy này có điên không? Nhưng dầu sao cứ thử xem, có mất mát gì
đâu.
Lời người kể chuyện:
Khi Bát Nhã Tâm Kinh đã thấm vào máu thì có-không, được-thua, mất-còn cũng
như nhau. Còn nếu cứ chấp trước rằng cái này là của tôi thì chung cuộc
chẳng níu kéo được gì, mà chỉ khổ đau. Khi quan phủ không thể giúp gã lấy lại
50 lạng vàng. Khi quan thượng thư không thể giúp gã lấy lại 50 lạng vàng. Khi
quan tể tướng cũng không thể giúp gã lấy lại 50 lạng vàng thì làm sao thiền sư
có thể giúp gã lấy lại được? Thế nhưng khi gã đã hỏi, chẳng lẽ không giúp? Chỉ
còn cách giúp gã buông bỏ, quên đi mà thôi. Đó là pháp Phật, pháp tối thượng của
Phật, ngoài ra thì không còn pháp nào khác. Chính “cái của tôi” và lòng tham
khiến con người không còn lý trí nữa. Nếu vì nghiệp chướng sâu dày, gã cứ
mãi tiếc thương 50 lạng vàng thì - một là gã sẽ hóa điên, hai là rầu rĩ sanh bệnh
mà chết hoặc giả gã sẽ tới giết viên quản lý để lấy lại vàng và kết cuộc sẽ lên
đoạn đầu đài hoặc ở tù suốt đời. Pháp Phật chỉ độ được người có trí tuệ, có thiện
căn mà không thể độ được kẻ vô minh dày đặc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét